Chính Sách Tài Khóa Của Việt Nam 2022

Chính Sách Tài Khóa Của Việt Nam 2022

Chính sách tài khóa (tên Tiếng Anh: Fiscal policy) là các biện pháp can thiệp của chính phủ đến hệ thống thuế và chi tiêu của chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm hoặc ổn định giá cả và kiểm soát lạm phát.

Chính sách tài khóa (tên Tiếng Anh: Fiscal policy) là các biện pháp can thiệp của chính phủ đến hệ thống thuế và chi tiêu của chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm hoặc ổn định giá cả và kiểm soát lạm phát.

Các khuynh hướng của chính sách tài khóa

Nền kinh tế gồm có 3 trạng thái: thái nền kinh tế đang phát triển bình thường, nền kinh tế đang phát triển quá mức và trạng thái suy thoái kinh tế. Theo đó, việc điều hành chính sách tài khóa theo hướng nào tùy thuộc vào quan điểm của từng chính phủ gắn với các bối cảnh kinh tế vĩ mô cụ thể.

Các khuynh hướng của chính sách tài khóa gồm: chính sách tài khóa trung lập, chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tài khóa thu hẹp.

Chính sách tài khóa trung lập

Chính sách tài khóa trung lập là chính sách cân bằng ngân sách, có nghĩa là chi tiêu Chính phủ bằng với nguồn thu từ thuế (G = T). Lúc này, chi tiêu của chính phủ hoàn toàn được tài trợ từ nguồn thu của chính phủ và nhìn chung là có tác động trung tính lên mức độ của các hoạt động kinh tế.

Chính sách tài khóa thu hẹp

Chính sách tài khóa thu hẹp là chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ (G < T) thông qua việc giảm bớt chi tiêu hoặc/và tăng nguồn thu của chính phủ.

Chính sách tài khóa thắt chặt thường được sử dụng khi nền kinh tế phát triển quá mức để kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.

Chính phủ sẽ giảm chi tiêu công và tăng thuế, lúc này tổng cầu sẽ giảm, dẫn đến thu nhập quốc dân giảm, giảm phát triển kinh tế và giảm lạm phát.

Bài viết trên đã khái quát về chính sách tài khóa, làm rõ khái niệm

các công cụ hỗ trợ và các khuynh hướng của chính sách này. Ngoài ra, bài viết cũng giúp bạn hiểu rõ được tầm quan trọng của chính sách tài khóa trong việc hỗ trợ Chính phủ định hướng, điều tiết, thúc đẩy kinh tế phục hồi và phát triển.

Nhắn tin zalo 0777 149 703 để admin gửi file miễn phí cho nhé. CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VIỆT NAMRead less

(*Chủ tịch Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam)

Chính sách tài khoá là một công cụ quan trọng trong việc điều hành chính sách kinh tế của Nhà nước, có ảnh hưởng rất mạnh đến sự cân bằng vĩ mô của nền kinh tế và tác động trực tiếp đến phương châm hoạt động của hệ thống ngân sách, cũng như hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Trong thời gian qua, chính sách tài khóa đã đóng góp không nhỏ và được nhận định là “điểm tựa” tốt cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế toàn cầu vẫn còn đối mặt với nhiều rủi ro và bất ổn, do chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch gia tăng và căng thẳng thương mại giữa một số nền kinh tế lớn, nhiều quốc gia chuyển sang áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt và điều chỉnh chính sách ưu đãi thuế. Từ đó, tác động đến tài chính toàn cầu và sự luân chuyển các dòng vốn đầu tư quốc tế,… Trong nước, thực hiện Chương trình “Phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội”, trong đó gói hỗ trợ tài khóa chiếm phần lớn chương trình nên nhiệm vụ là hết sức nặng nề. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, như: Nghị định số 15/2022/NĐ-CP hướng dẫn về chính sách miễn, giảm thuế theo Nghị quyết số 43/2022/QH13; Nghị định số 32/2022/NĐ-CP gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ, đặc biệt đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước,… Ngoài ra, do giá xăng dầu tăng đột biến, nên để kiểm soát giá cả và giảm bớt khó khăn cho nền kinh tế, Chính phủ đã báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành các nghị quyết về giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với các mặt hàng. Tuy nhiên, sự chuyển dịch của nền kinh tế và đầu tư công còn chậm và chưa rõ nét; tình hình thiên tai, bão lũ, dịch bệnh diễn biến phức tạp,… tác động không nhỏ đến việc thực hiện chính sách tài khóa hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững.

Bài viết trình bày sơ bộ thực trạng chính sách tài khóa của Việt Nam và đưa ra các gợi ý tăng cường hiệu quả của chính sách tài khóa năm 2024, nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững.

Từ khóa: chính sách tài khóa, tăng trưởng bền vững, ngân sách Nhà nước, thuế, chi tiêu công.

JEL Classifications: M40, M41, M49.

DOI: https://doi.org/10.59006/vnfa-jaa.01202402

“Chính sách tài khóa” là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô, được Chính phủ sử dụng để huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia. Trong vài năm qua,

chính sách tài khóa của Việt Nam từ  thắt chặt đã được thực hiện theo hướng mở rộng, nới lỏng. Đến nay, có thể nhận xét sơ bộ, năm 2023 mặc dù nền kinh tế nước ta đối mặt với nhiều khó khăn thách thức nhưng với nỗ lực, quyết tâm của Chính phủ thì việc điều hành ngân sách đạt nhiều kết quả khả quan.

Mặc dù, thực hiện nhiều chính sách miễn giảm thuế, song do dự toán Ngân sách Nhà nước (NSNN) 2023 khá thận trọng nên số thu NSNN năm 2023 là có thể chấp nhận. Trước nguy cơ sụt giảm nguồn thu, dự toán NSNN năm 2023 được lập với sự thận trọng, tăng chi thường xuyên là cần thiết và hợp lý, cũng điều chỉnh lại tỷ lệ phân chia NSNN của một số địa phương. Tuy nhiên, do yêu cầu cấp thiết của việc phục hồi kinh tế, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 43/2022/ QH2015, cho phép nới lỏng chi tiêu công và chấp nhận tăng bội chi NSNN cho hai năm 2022 và năm 2023.

Năm 2023, trong bối cảnh nước ta tiếp tục phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức, hàng loạt chính sách miễn giảm và giãn hoãn thuế phí đã được kịp thời ban hành, với quy mô lên đến khoảng 200 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, theo ước tính đến thời điểm cuối tháng 12, thu NSNN đã đạt 1.717,8 nghìn tỷ đồng, bằng 106% dự toán năm và giảm 5,4% so với năm trước.

Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế chưa đạt như kỳ vọng, đây là một dấu ấn đặc biệt quan trọng, thể hiện rõ vai trò tích cực của các biện pháp cải cách nguồn thu, hiệu quả của các chính sách tài khóa đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế.

Nhờ thu NSNN tích cực, Việt Nam đã  đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế, lạm phát trong phạm vi kiểm soát (3,5%), thấp hơn mục tiêu đề ra; đảm bảo được nguồn thực hiện các chính sách an sinh xã hội, an ninh quốc phòng và đặc biệt bố trí được nguồn lực rất lớn cho đầu tư công, xây dựng đường cao tốc và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng trên khắp cả nước.

Trong năm 2023, Nhà nước bố trí hơn 760 nghìn tỷ đồng, bằng 35% tổng chi NSNN cho đầu tư công, gấp 1,5 lần so với năm 2022 (chưa kể phần vượt thu ngân sách năm 2022). Đồng thời, triệt để tiết kiệm các khoản chi thường xuyên, rà soát và sắp xếp các nhiệm vụ chi, cắt giảm các khoản chi chưa thực sự cần thiết và cấp bách, điều hành chi chặt chẽ trong phạm vi dự toán và khả năng thu ngân sách các cấp.

Đặc biệt, lũy kế hết năm 2023, NSNN đã tích lũy trên 500 nghìn tỷ đồng, đảm bảo đủ nguồn đến hết năm 2026 để tăng lương theo Nghị quyết 27-NQ/TW. Việc này vô cùng ý nghĩa, do 03 năm tác động của dịch Covid-19, kinh tế tài chính ngân sách còn khó khăn lại phải dồn sức cho phòng chống dịch nên chưa thực hiện cải cách tiền lương được. Vì vậy, đời sống một bộ phận cán bộ công chức gặp khó khăn. Đây cũng là tiền đề quan trọng, để năm mới 2024 Việt Nam tiếp tục thực hiện cải cách tổng thể chính sách tiền lương theo Nghị quyết 27-NQ/TW.

Trong kiểm soát bội chi, quản lý nợ công đã đạt được những thành công và là một điểm sáng trong điều hành chính sách tài khóa. Bội chi NSNN năm 2023 dưới 4% GDP, thấp hơn nhiều so với mức 4,42% Quốc hội cho phép, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

Đánh giá cao kết quả đạt được, song cần quan tâm, tập trung xem xét kỹ hơn một số vấn đề. Cụ thể, tình hình thu NSNN ước hoàn thành dự toán, nhưng thực chất vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro khi thu nội địa giảm. Điều này cho thấy, tình hình kinh tế còn khó khăn được phản ánh qua cơ cấu thu NSNN. Mặt khác, thu NSNN chịu nhiều ảnh hưởng từ các chính sách miễn và giảm thuế phí nhưng báo cáo của Chính phủ chưa có đánh giá định lượng, hiệu quả của các chính sách này đối với nền kinh tế.

Báo cáo trước Quốc hội Khóa XV, tại kỳ họp tháng 10/2023, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, thu NSNN thực hiện 9 tháng năm 2023, bằng 75,5% dự toán. Trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn, Chính phủ, Quốc hội triển khai thực hiện nhiều chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí và tiền thuê đất và ước thu NSNN cả năm bằng dự toán Quốc hội giao; tỷ lệ huy động vào NSNN đạt khoảng 15,7% GDP. Cụ thể: thu nội địa 9 tháng đạt 76% dự toán, ước cả năm khoảng 1.358,2 nghìn tỷ đồng, đạt 101,8% (tăng 23,9 nghìn tỷ đồng) so với dự toán; thu từ dầu thô 9 tháng đạt 109,5% dự toán, ước cả năm khoảng 62,1 nghìn tỷ đồng, đạt 147,9% (tăng 20,1 nghìn tỷ đồng) so với dự toán. Trên cơ sở, dự kiến giá bán và sản lượng khai thác cao hơn dự toán.

Còn thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu 9 tháng ước đạt 68,5% dự toán, ước cả năm khoảng 195 nghìn tỷ đồng, đạt 81,6%, giảm 44 nghìn tỷ đồng so dự toán. Ngoài ra, thu viện trợ ước cả năm đạt dự toán là 5,5 nghìn tỷ đồng.

Trong điều hành chính sách tài khoá nói riêng và chính sách vĩ mô nói chung, có những thành công trong quản lý nợ công.

Năm 2023, các chỉ tiêu an toàn nợ công tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ trong giới hạn được Quốc hội phê chuẩn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và góp phần củng cố dư địa chính sách tài khóa. Quy mô nợ công đến cuối năm 2023, khoảng 37% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trần 60% Quốc hội đề ra. Nợ Chính phủ khoảng 34% GDP, thấp hơn nhiều so với trần 50%. Mức dư nợ này thấp hơn nhiều so với mức trung bình năm 2023 của các quốc gia có mức xếp hạng tín nhiệm BB là 52,8% GDP và BBB là 54,9% GD. Trong khi, mức tín nhiệm của Việt Nam còn thấp hơn một bậc so với mức tín nhiệm BBB.

Cơ cấu nợ tích cực, dư nợ trong nước tăng lên, chiếm khoảng 71% dư nợ, Chính phủ góp phần giảm thiểu rủi ro tỷ giá. Nợ trong nước chủ yếu là trái phiếu Chính phủ (TPCP), có kỳ hạn phát hành dài và giảm thiểu rủi ro vay đảo nợ. Kỳ hạn phát hành bình quân TPCP, dự kiến năm 2023 khoảng 12,4 – 12,5/năm, đảm bảo mục tiêu từ 9 – 11 năm theo Nghị quyết của Quốc hội số 23/2021/QH15 về kế hoạch tài chính quốc gia và vay trả nợ công 5 năm, giai đoạn 2021 – 2025. Lãi suất phát hành bình quân cả danh mục TPCP, dự kiến năm 2023 khoảng 3,3%/năm, giảm 0,18 điểm phần trăm so với mức năm 2022 trong bối cảnh lãi suất toàn cầu vẫn duy trì xu hướng tăng.

Nợ nước ngoài giảm dần trong cơ cấu vay của Chính phủ. Danh mục nợ nước ngoài hiện hành, chủ yếu vẫn là các khoản vay kỳ hạn dài và lãi suất ưu đãi; góp phần tăng tính bền vững nợ trước biến động tỷ giá của các ngoại tệ mạnh trên toàn cầu.

Việc tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch, nâng hạng Việt Nam từ mức BB lên mức BB+ vào tháng 12/2023, sau khi tổ chức Moody’s và S&P nâng hạng Việt Nam từ Ba3 lên Ba2 và BB lên BB+ trong năm 2022, đều có dấu ấn từ kết quả củng cố tài khoá và kiểm soát nợ công.

Với mức nợ thấp so với trần như hiện nay và cơ cấu nợ thuận lợi sẽ cơ cấu lại nợ công, Việt Nam có nhiều dư địa vay nợ công để triển khai vay vốn cho những dự án lớn là động lực của nền kinh tế, tạo ra hiệu quả kinh tế nhanh nhất và bền vững nhất.

Nhà nước đã ban hành “Chương trình quản lý nợ 03 năm” và kế hoạch vay, trả nợ công hàng năm. Cần bổ sung quy định ngưỡng cảnh báo nợ công theo thông lệ quốc tế bên cạnh khái niệm trần nợ công. Để tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho việc vay, trả nợ công và cần sớm ban hành các Luật sửa đổi bổ sung một số điều của các Luật liên quan (như Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư…); sửa đổi, bổ sung một số Nghị định hướng dẫn Luật Quản lý nợ công, như: Nghị định về cho vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài. Đồng thời, không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn vay công và cơ cấu lại nợ công. Hiện nay, Nhà nước đã linh hoạt, chủ động triển khai việc huy động vốn theo yêu cầu tiến độ giải ngân đầu tư công, theo hướng tăng các nguồn vay trong nước với lãi suất thấp, ưu đãi, thời gian vay dài, sử dụng vượt thu ngân sách để trả nợ gốc, giảm áp lực nợ công. Việc vay mới chỉ triển khai, sau khi đánh giá kỹ tác động đến an toàn nợ công, chỉ sử dụng cho các công trình có hiệu quả kinh tế cao, hiệu quả xã hội cao và chỉ vay trong khả năng trả nợ.

Để quản lý nợ công theo hướng bền vững, Chính phủ đã tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nợ công và công khai thông tin nợ công. Cùng với đó, tích cực đẩy mạnh công tác quảng bá nhà đầu tư, triển khai có hiệu quả công tác xếp hạng tín nhiệm quốc gia và góp phần giảm chi phí huy động vốn vay của Chính phủ, theo lộ trình cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia tới năm 2030.

Năm 2024 – Tiếp tục thực hiện nới lỏng chính sách tài khóa

Dự báo năm 2024 sẽ là năm có nhiều thuận lợi và thách thức đan xen, trong đó khó khăn sẽ nhiều hơn thuận lợi. Trong khi đó, nhiệm vụ đặt ra đối với ngành tài chính hết sức nặng nề: dự toán thu NSNN là 1,7 triệu tỷ đồng; dự toán chi NSNN là 2,1 triệu tỷ đồng; bội chi NSNN là 399,4 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 3,6% GDP.

Vấn đề khó khăn đặt ra cho năm 2024, là phải sử dụng chính sách tài khóa hợp lý để vừa thúc đẩy kinh tế, vừa đảm bảo giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và đảm bảo an toàn tài chính quốc gia. Vì vậy, mức độ nới lỏng cần được tính toán và cân nhắc thận trọng, để đạt được mục tiêu nói trên. Trong đó,  mục tiêu ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát vẫn được coi là mục tiêu ưu tiên hàng đầu.

Phương án dự toán thu NSNN năm 2024 tăng khoảng 5% so với số ước thực hiện năm 2023, là khá tích cực trong bối cảnh dự kiến tăng trưởng kinh tế khoảng 6% – 6,5%, lạm phát khoảng 4% – 4,5%. Tuy nhiên, thu NSNN vẫn chứa yếu tố rủi ro, thiếu bền vững khi thu từ đất có mức tăng lớn.

Cần đánh giá tổng thể về chính sách cải cách tiền lương và cân đối nguồn lực 2024 – 2026. Dự báo đến 2030, để bảo đảm tính khả thi, ổn định và lâu dài theo lộ trình của Nghị quyết 27-NQ/TW; cần thực hiện các giải pháp đồng bộ để tăng thu ngân sách bền vững; tránh bị động trong bố trí nguồn lực; đề nghị cần có chính sách tài khóa, tiền tệ linh hoạt; có chính sách động viên bổ sung nguồn thu trong giai đoạn tiếp theo; cải cách tiền lương thực hiện đồng bộ điều chỉnh mức lương cơ sở cùng với đổi mới; sắp xếp lại bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả, tinh giản biên chế gắn với vị trí việc làm.

Về phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2024

Cần bảo đảm nguyên tắc phân bổ ngân sách trung ương phải bám sát các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ tại các nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Luật NSNN, Luật Đầu tư công; đẩy nhanh tiến độ giao vốn, bố trí vốn cho các dự án đủ thủ tục đầu tư; bố trí trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn; xử lý dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản; bảo đảm thực hiện chính sách an sinh xã hội; dành nguồn dự phòng để chủ động xử lý các tình huống cấp bách; bảo đảm công khai, minh bạch và tiết kiệm, cùng với tăng cường phòng và chống tham nhũng.

Về kế hoạch tài chính NSNN 03 năm 2024 – 2026 nhận thấy, việc lập kế hoạch đã bám sát mục tiêu Đại hội Đảng và Nghị quyết của Quốc hội, phù hợp với chiến lược phát triển ngành và lĩnh vực, đảm bảo các nhiệm vụ trọng tâm. Đồng thời, đề nghị có giải pháp quyết liệt hơn trong điều hành thu – chi NSNN, phấn đấu tăng thu và hoàn thành các chỉ tiêu theo nghị quyết của Quốc hội.

Trong bối cảnh đó, mục tiêu lớn của Chính phủ, của ngành Tài chính là xây dựng và tổ chức điều hành chính sách tài khóa chủ động và linh hoạt, có trọng tâm và trọng điểm. Đảm bảo nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng và an sinh xã hội. Trong đó, đặc biệt chú trọng nguồn lực thực hiện nhanh các công trình đầu tư hạ tầng quan trọng và kết nối vùng và liên vùng; chính sách cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội gắn với đẩy mạnh sắp xếp và tinh gọn bộ máy. Để đạt được các mục tiêu đề ra, cần triển khai quyết liệt đồng bộ một số nhóm giải pháp.

Trước hết, thường xuyên theo dõi, dự báo đúng tình hình kinh tế thế giới và trong nước. Tập trung điều hành chính sách tài khóa chủ động, hợp lý, linh hoạt và hiệu quả. Phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế khác, nhằm giữ vững nền tảng kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững các lĩnh vực kinh tế – xã hội.

Thứ hai, cần tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về thu NSNN, tăng cường quản lý thu, phấn đấu hoàn thành dự toán thu được giao ở mức cao nhất và đảm bảo nguồn lực thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó, nghiên cứu hoàn thiện hệ thống thu ngân sách theo hướng tạo thuận lợi cho người nộp thuế và mở rộng cơ sở thuế, đảm bảo tính đồng bộ của pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế; quyết liệt công tác quản lý thuế, chống thất thu thuế, chống chuyển giá, thu hồi nợ thuế đúng, đủ, theo kịp yêu cầu phát sinh từ thực tiễn trong nền kinh tế số và giao dịch xuyên biên giới,…

Thứ ba, thực hiện quản lý chi NSNN chặt chẽ, tăng cường tiết kiệm chi, nâng cao hiệu quả quản lý, phân bổ, sử dụng NSNN; siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính; tiếp tục cơ cấu lại chi đầu tư công; tập trung nguồn lực bố trí cho các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách các công trình trọng điểm quốc gia,… phấn đấu giải ngân đầu tư công cao hơn năm trước, hạn chế tối đa tình trạng chuyển nguồn. Đổi mới quản lý chi thường xuyên, tăng cường phân cấp, trao quyền tự chủ, khuyến khích sử dụng nguồn lực phù hợp với nhiệm vụ đặc thù của các bộ, ngành, địa phương. Bố trí đủ nguồn lực thực hiện cải cách chính sách tiền lương từ ngày 01/7/2024.

Trên cơ sở tổng mức chi được Quốc hội quyết định, Chính phủ cần rà soát, phân bổ chi tiết từng nhiệm vụ chi cụ thể cho từng bộ, cơ quan trung ương, địa phương; chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu, sự cần thiết, tính đầy đủ, hợp lệ, tuân thủ tiêu chuẩn, định mức, chế độ chi và các điều kiện bổ sung, giao dự toán và giải ngân theo quy định của Luật NSNN và các quy định pháp luật có liên quan. Đối với số vốn còn lại chưa phân bổ, đề nghị Chính phủ chỉ đạo khẩn trương rà soát, báo cáo Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định theo quy định tại Nghị quyết số 70/2022/QH15. Quá thời hạn theo quy định của pháp luật và kiên quyết  hủy dự toán theo quy định.

Thứ tư, về điều hành NSNN năm 2024 Chính phủ chỉ đạo các cơ quan tiếp tục quyết liệt trong điều hành thu, đẩy nhanh tiến độ thu hồi, xử lý nợ đọng, phấn đấu thu nộp ngân sách cao hơn, tránh tình trạng gian lận thuế, trốn thuế; quản lý thu thuế cần chặt chẽ đối với các hoạt động kinh doanh trên nền tảng số, thương mại điện tử hay kinh doanh xuyên biên giới,… Cần rà soát thực hiện trong năm, như về quản lý đối với số thu từ hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số là nội dung đã được Quốc hội quy định tại Khoản 9 Điều 2 Nghị quyết 69/2022/QH15 về dự toán NSNN năm 2023, đề nghị triển khai thực hiện theo đúng nghị quyết.

Thứ năm, cần phải có những điều chỉnh trước những biến động của bối cảnh mới, vấn đề dự báo thu và chi ngân sách vẫn luôn là thách thức. Việc dự báo thận trọng là cần thiết, song quá thận trọng có thể khiến Việt Nam tự thu hẹp không gian tài khóa của mình. Việt Nam đang đứng trước thế lưỡng nan, vừa muốn tiếp tục nới lỏng chi tiêu và vừa muốn giảm thuế, để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Hệ quả là, cán cân ngân sách có nguy cơ mất cân đối nhiều hơn và rủi ro làm tăng vay nợ.

Thứ sáu, về chính sách tài khóa cho năm 2024 và trung hạn 2025 – 2026. Mặc dù, dự toán thu và chi NSNN cần tiếp tục duy trì nguyên tắc “lường thu mà chi”, cần có giải pháp chính sách để theo dõi và đánh giá về công tác lập dự toán và chấp hành NSNN ở tất cả các cấp. Bối cảnh kinh tế – xã hội giai đoạn 2024 – 2025, có những thay đổi rất lớn do tác động của dịch bệnh, biến đổi khí hậu và tình hình kinh tế chính trị thế giới. Vì vậy, kế hoạch tài chính 5 năm và kế hoạch tài chính – NSNN 03 năm, cần có những thay đổi để phù hợp với tình hình mới.

Ngoài ra, cần điều chỉnh quy mô và cơ cấu chi trong NSNN, chú ý phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ trong việc hỗ trợ và vay nợ. Năm 2024 – 2025, cần tiếp tục thực hiện nguyên tắc điều hành chính sách tài khóa là chủ động, linh hoạt trong ứng biến về ngắn hạn, nhưng tuân thủ các nguyên tắc cân đối ngân sách và kỷ luật tài chính về dài hạn.

Thứ bảy, kiểm soát chặt chẽ bội chi NSNN, nợ công, các nghĩa vụ nợ dự phòng đảm bảo các chỉ tiêu trong giới hạn an toàn nợ theo quy định; tiếp tục thực hiện các giải pháp cơ cấu lại danh mục nợ công theo hướng an toàn, bền vững.

Thứ tám, chú trọng đảm bảo sự vận hành ổn định và an toàn của thị trường tài chính và dịch vụ tài chính; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật đảm bảo chặt chẽ, đồng bộ; tháo gỡ khó khăn, phát triển bền vững trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng, chứng khoán, phát hành trái phiếu DN, bảo hiểm. Tiếp tục hoàn thiện pháp lý và nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán, thẩm định giá và các dịch vụ tài chính khác, để đáp ứng nhu cầu xã hội và phù hợp thông lệ quốc tế.

Thứ chín, thực hiện quyết liệt, thực chất, có hiệu quả tái cơ cấu DN, cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước, gắn với đổi mới quản trị theo các chuẩn mực tiên tiến; cải thiện thực chất môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tích cực, chủ động hội nhập tài chính quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại. Đồng thời, với đó tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đổi mới cơ chế tài chính đơn vị sự nghiệp công lập, cùng với việc tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính và ngân sách trong thực thi công vụ.

Tình hình thu NSNN ước hoàn thành dự toán, nhưng thực chất vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro khi thu nội địa giảm. Điều này cho thấy, tình hình kinh tế còn khó khăn. Bên cạnh đó, thu NSNN chịu nhiều ảnh hưởng từ các chính sách miễn giảm thuế – phí, nhưng chưa có đánh giá định lượng và hiệu quả của các chính sách này.

Vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương bị ảnh hưởng, thu ngân sách địa phương có sự không đồng đều giữa các địa phương, nhiều địa phương ước không đạt dự toán, các địa phương cần phấn đấu hoàn thành dự toán.

Về chi NSNN, dự kiến thực hiện chi NSNN thể hiện được nỗ lực của Chính phủ,  nhưng vẫn cần lưu ý một số vấn đề, như: về phân bổ giao dự toán chi đầu tư phát triển và cần làm rõ nguyên nhân chưa giao hết kế hoạch vốn đã được quyết định.

Tiến độ giải ngân chi đầu tư phát triển đã có những cải tiến tích cực cao hơn so với cùng kỳ 2022 và có khả năng đạt 95%, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, cần tiếp tục có giải pháp cụ thể, quyết liệt, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện cam kết giải ngân và chủ động tháo gỡ khó khăn vướng mắc. Vẫn còn tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản và chưa thu hồi hết vốn ứng trước.

Về chi thường xuyên, được phân bổ cơ bản đảm bảo nhiệm vụ chi an sinh xã hội, đảm bảo nguồn thực hiện tăng lương tối thiểu và tăng lương hưu. Về chương trình mục tiêu quốc gia và qua giám sát cho thấy, việc giải ngân nguồn vốn ở nhiều địa phương còn chậm và cần giải pháp tháo gỡ tổng thể để đẩy mạnh triển khai,…

Có thể nhận thấy, thu ngân sách trung ương dự kiến hụt thu, điều này ảnh hưởng đến vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, đặc biệt là việc cân đối nguồn lực cho việc thực hiện mục tiêu phát triển liên kết vùng theo nghị quyết của Đảng. Cùng với đó, thu ngân sách địa phương có sự không đồng đều giữa các địa phương và nhiều địa phương ước không đạt dự toán. Do đó, các địa phương cần phấn đấu tăng thu hoàn thành dự toán.

Điều đáng quan tâm trong việc thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng, một số trường hợp vướng mắc gây bức xúc cho DN, người nộp thuế, cần sớm có giải pháp khắc phục để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của DN, đồng thời không để xảy ra tình trạng lợi dụng gây thất thoát NSNN. Tình hình cổ phần hóa và thoái vốn tại DN Nhà nước chưa sự chuyển biến tích cực, cần có giải pháp đẩy nhanh tiến độ.

Về chi NSNN, thể hiện được nỗ lực của Chính phủ, nhưng vẫn cần lưu ý một số vấn đề như: về phân bổ giao dự toán chi đầu tư phát triển, báo cáo của Chính phủ chưa làm rõ nguyên nhân chưa giao hết kế hoạch vốn đã được quyết định. Tiến độ giải ngân chi đầu tư phát triển đã có những cải tiến tích cực cao hơn so với cùng kỳ của năm 2022, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu và cần tiếp tục có giải pháp cụ thể, quyết liệt, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện cam kết tiến độ giải ngân; nâng cao trách nhiệm, tính chủ động của các bộ, ngành, địa phương trong công tác chuẩn bị đầu tư; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện để đẩy nhanh tiến độ giải ngân trong những tháng cuối năm.

Tại một số địa phương, vẫn còn tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản và chưa thu hồi hết vốn ứng trước: về chi thường xuyên nhận thấy, đối với nguồn chi thường xuyên đã được phân bổ cơ bản đảm bảo các nhiệm vụ chi an sinh xã hội, đảm bảo nguồn để thực hiện tăng lương tối thiểu cho các đối tượng hưởng lương từ NSNN, tăng lương hưu và trợ cấp cho các đối tượng từ 01/7/2023; về chương trình mục tiêu quốc gia, qua giám sát của Quốc hội cho thấy, việc giải ngân nguồn vốn ở nhiều địa phương còn chậm và cần giải pháp tháo gỡ tổng thể để đẩy mạnh triển khai.

Thế giới đang đối mặt với nhiều thay đổi bất thường, nên cũng cần có những giải pháp đặc thù mới có thể đối phó được. Chính sách tài khóa cũng cần có sự điều chỉnh, theo quan điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Dĩ bất biến – Ứng vạn biến”.

Keynes, J.M. (1936). “The general theory of employment, interest, and money”. New York: Harcout, Brace & World, Inc;

Nguyễn Viết Lợi. (2018). “Chính sách tài khóa năm 2017 và định hướng 2018”, Tạp chí Tài chính 02/2018.

Trương Bá Tuấn. (2014). Minh bạch và trách nhiệm giải trình tài khóa ở Việt Nam, Sách Tài chính Việt Nam 2013 – 2014, NXB Tài chính, Hà Nội.

Trương Bá Tuấn. (2017). “Đảm bảo bền vững tài khóa ở Việt Nam: Hướng đến một chiến lược tổng thể và toàn diện”. Tạp chí Tài chính.

World Bank, Đánh giá chi tiêu công ở Việt Nam. Chính sách tài khóa hướng tới bền vững, hiệu quả và công bằng. Báo cáo đánh giá phối hợp giữa Chính phủ Việt Nam và ngân hàng thế giới.

Cổng thông tin Bộ Tài chính. 31/12/2023. Tổng kết công tác tài chính 2023.